Thưa toàn thể bà con nhân dân, du khách thập phương và quý vị về tại đền Qủa Sơn.
Kính thưa các quý vị!
Lý
Nhật Quang là con trai thứ 8 của vua Lý Công Uẩn, còn gọi là Lý Thái
Tổ. Ông vốn là người thông minh hiếu học, đức trọng tài cao, yêu nước
thương dân sâu sắc. Năm 1039 ông được nhà vua cử vào trông coi việc tô
thuế tại vùng đất Nghệ An với tước hiệu Uy Minh Thái Tử. Tính nghiêm cẩn
và liêm trực, không tơ hào của dân nên ông rất được nhân dân Hoan Châu
mến mộ. Năm 1041, ông được bổ nhiệm làm tri châu Nghệ An với hiệu Uy
Minh Hầu Lý Nhật Quang. Đây là điểm mốc quan trọng khẳng định vai trò và
ảnh hưởng to lớn của Lý Nhật Quang với vùng đất Nghệ An, nhất là khi
tỉnh Nghệ An đã quyết định lấy năm 1041 là năm thành lập tỉnh. Năm 1044,
vua Lý Thái Tông đã phong cho Lý nhật Quang từ tước Hầu lên tước Vương
thành Uy Minh Vương Lý Nhật Quang và ban cho ông quyền Tiết Việt (tức là
có quyền thay mặt nhà vua, được vua tin cậy và uỷ thác quyền định đoạt
mọi chuyện chính sự tại Nghệ An).
Với
trọng trách được giao, đứng đầu và tri nhân Nghệ An. Lý Nhật Quang đã
thể hiện tài kinh bang tế thế, dùng uy chế ngự, dùng âm để vỗ yên, dùng
chất sinh khoan giản và an lạc, tức là khoan dung, giản dị, gần gũi nhân
dân, minh bạch các chế độ tô thuế, lấy việc dân no ấm yên vui hạnh phúc
làm gốc của việc cai trị.
Để
phát triển kinh tế, Ngài cho chiếu dụ dân lưu tán từ các vùng đất khác
về khai khẩn đất hoang, lập nhiều làng ấp mới. Tiếp nhận tù binh chiến
tranh để lập nhiều làng ấp ở vùng Tương Dương, Con Cuông để họ được sinh
sống bình thường. Ngài đã tiến hành hàng loạt các biện pháp khuyến nông
như dạy cho dân nghèo trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa, mở rộng chăn nuôi,
phát triển nhiều nghành nghề thủ công; Cho xây dựng nhiều công trình
thuỷ lợi, khai thông luồng lạch, đào sông để phát triển đường thuỷ, mở
nhiều đường bộ giao thương với các vùng. Tương truyền Ngài đã cho mở
đường thượng đạo sang biên giới Việt - Lào (tức đường 7 ngày nay); Mở
đường thượng đạo nối từ Đô Lương ra tới Thăng Long và có rất nhiều đoạn
đường với đường Hồ Chí Minh thời chiến tranh chống Mỹ. Ngài còn cho phát
triển các ngành khai mỏ, luyện kim, rèn sắt, đóng thuyền. Nhiều làng
nghề ở Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay có từ thời Lý Nhật Quang đã kết hợp
hài hoà giữa phát triển kinh tế với quốc phòng bằng việc thời bình thì
sản xuất nông cụ, thời chiến thì sản xuất vũ khí.
Bên
cạnh việc phát triển kinh tế, Lý Nhật Quang càng chăm lo đến sự nghiệp
giáo dục, văn hoá, ngài cho mở nhiều trường học, xây dựng nhiều đền
chùa. Dưới thời Lý Nhật Quang làm tri châu tại Nghệ An đã có 18 người đỗ
đạt khoa bảng, trong đó có 4 Trạng Nguyên, 3 Thám Hoa, 2 Hoàng Giáp, 5
Tiến Sỹ, 4 Phó Bảng. Tại xã Nhân Bồi hiện còn dấu tích của những nơi
diễn trò hát xướng; Nhiều câu ví dặm lưu truyền đến ngày nay được cho là
có từ những gánh hát dưới thời Lý Nhật Quang:
Muốn ăn khoai sọ chấm đường
Xuống đây mà ngược đò lường cùng anh
Đò lường bến nưổc trong xanh
Gạo ngon lụa tốt bến thành ngược xuôi
Hoặc:
Đô Lương dệt gấm, thêu hoa
Quỳnh đôi tơ lụa, thủ khoa ba đời
Những câu ví đò đưa, phường vải đã cho thấy sự sôi động của các hoạt động kinh tế văn hoá tại Nghệ An thời bấy giờ.
Về
quân sự, Ngài cho xây dựng đội quân Nghiêm Thắng theo hướng “ngụ binh ư
nông”, lúc cần thì tham gia chiến đấu, bảo vệ bờ cõi, trật tự an ninh
tổ quốc; xây dựng căn cứ thuỷ quân ở Lạch Cờn - Quỳnh Lưu canh giữ một
vùng biển rộng lớn, ngăn chặn các cuộc xâm lấn của quân Chiêm Thành. Bên
cạnh đội quân chủ lực, ông còn xây dựng các đội dân binh để bảo vệ trật
tự trị an ở cơ sở làng xã. Dưới thời Lý Nhật Quang, Triều đình không
phải đưa quân trung ương vào đồn trú mà lực lượng tại chỗ đủ sức đảm bảo
xây dựng Nghệ An thành “Thành đồng vách sắt”.
Có
thể nói, suốt 16 năm trị nhậm ở Nghệ An, Lý Nhật Quang đã có công rất
lớn trong việc củng cố, xây dựng Nghệ An từ mảnh đất phên dậu, một vùng
Biên viễn được xếp vào diện “Trại” trở thành một trọng trấn, thành căn
cứ then chốt, một pháo đài kiên cố cả về quân sự, kinh tế và chỗ dựa
lòng người không chỉ đối với nhà Lý mà cả các triều Trần, Lê sau này.
Kính thưa các quý vị!
Khi
được cử làm tri châu Nghệ An, Lý Nhật Quang đã quyết định chọn Bạch
Đường làm Phủ luỵ. Theo sách tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ 19 thì Phủ
Bạch Đường thời Lý gồm các thôn Nhân Trung, Phúc An, Nhân Bồi, Miêu
Đường; đời Ngô thuộc quận Cửu Đức, thời tiền Lê thuộc đất Hoan Đường.
Địa danh Bạch Đường chính thức đi và chính sử, đi vào huyền thoại, đi
vào dân ca, trở thành một “linh địa” của xứ nghệ kể từ năm 1044 khi Uy
Minh Vương Lý Nhật Quang chọn mảnh đất này xây dựng thành trung tâm hành
chính, kinh tế và quân sự phía nam của vùng Biên viễn Đại Việt. Đến
cuối thế kỷ 19, để tránh tên huý của vua Đồng Khánh, Bạch Đường được đổi
tên thành xã Bạch Ngọc. Vào năm 1953, xã Bạch Ngọc được chia làm 3 xã:
Ngọc Sơn, Lam Sơn, Bồi Sơn như ngày nay. Với vị trí “Tiến khả dĩ công,
thoái khả dĩ thủ”
do thế tựa núi kề sông, thuận tiện cho việc giao thương buôn bán với
các vùng miền để phát triển kinh tế chọn Bạch Ngọc làm lỵ sở, Lý Nhật
Quang vừa kiểm soát được an ninh quốc phòng cả vùng Hoan Châu, vừa có
thể khai thác cả một vùng đồng bằng rộng lớn để phát triển kinh tế, tích
trữ lương thảo, khai thác lâm thủy sản. Công đức của Ngài Lý Nhật Quang
đối với Nghệ An nói chung, vùng đất Bạch Ngọc nói riêng thật là to lớn.
Năm
1057, Uy Minh Vương Lý Nhật Quang quy hóa và hiển thánh ngay dưới chân
núi Quả, nhân dân xứ Nghệ vô cùng thương tiếc, khóc than như khóc cha mẹ
mình. Sau khi ông mất, nhân dân trong vùng nhớ ơn và lập đền thờ ông
đúng nơi ông đã quy hoá và hiển thánh, gọi là Đền Quả Sơn. Chuyện còn
ghi lại, sau khi quy hoá, lý Nhật Quang đã hiển thánh và luôn phù hộ cho
triều đình đánh thắng nhiều kẻ thù xâm lược, nên các triều đại về sau,
mỗi khi xuất quân đánh giặc đều về Đền Quả Sơn thắp hương cầu ngài phù
hộ và sau khi thắng trận, lại về đền thắp hương tạ lễ báo công. Người ta
nói, Lý Nhật Quang sống đánh giặc, chết hiển linh đánh giặc là như vậy.
Kính thưa các quý vị!
Cùng
với thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, Đền Quả Sơn còn thờ Đông Chinh
Vương và Dực Thánh Vương là 2 hoàng tử nhà Lý, anh em của Lý Nhật Quang
được nhà Vua cử vào giúp Lý Nhật Nhật Quang trong thực hiện việc chính
sự.
Như
vậy từ thế kỷ 11, đã có 3 Hoàng tử nhà Lý trấn thủ ở vùng đất Nghệ An
biên viễn và hiểm yếu này, tạo cơ sở vững chắc cho nhà Lý và các triều
đại về sau củng cố và xây dựng Quốc gia Đại Việt ngày càng vững mạnh. Lễ
hội đền Quả Sơn ở Đô Lương là hoạt động có ý nghĩa sâu sắc, thể hiện
tấm lòng của cấp uỷ, chính quyền và nhân dân tỉnh Nghệ An nhằm tri ân
nhà Lý, hướng về Thăng Long văn hiến.
Trải
qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, Đền Quả Sơn đã được các triều
đại phong kiến xây dựng và trùng tu tôn tạo nhiều lần. Năm 1073, khi Lý
Đạo Thành được cử làm Tri châu Nghệ An, ông đã dâng sớ lên triều đình
nhà Lý miễn tô thuế vùng Bạch Ngọc để chăm lo hương khói cho Đền Quả
Sơn. Đến đầu thế kỷ thứ 20, ngôi đền có quy mô 7 toà 40 gian mang phong
cách kiến trúc thời Lý - Trần đã được xếp vào hạng Quốc tế và Quốc tạo,
tức là nhà nước đứng ra tế lễ và xây dựng. Đền Quả Sơn được xem là một
trong những đệ nhất danh thiêng của xứ Nghệ. Năm 1953, bom đạn của thực
dân Pháp đã làm cho đền bị phá hoại nghiêm trọng. Tưởng nhớ công lao to
lớn của Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, người dân Bạch Ngọc và Xứ Nghệ đã
rước di tượng của Ngài cùng ngai vị của Đông Chinh Vương, Dực Thánh
Vương về chùa Nhân Bồi để bảo vệ và chăm lo hương khói. Nhiều đồ tế khí
quý giá của Đền được nhân dân đưa về nhà cất giữ cẩn thận, nguyên vẹn
sau này đã tự nguyện mang lại đền, Vì vậy chùa Nhân Bồi, chùa Bà Bụt
hiện là những di tích cơ bản, quan trọng gắn liền không thể tách rời với
di tích lịch sử Đền Quả Sơn.
Thực
hiện chủ trương bảo tồn, xây dựng và tôn tạo các di sản văn hoá dân tộc
từ năm 1996, với tình cảm đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, được sự giúp đỡ
chỉ đạo của ngành Văn hoá tỉnh Nghệ An, cấp Uỷ chính quyền nhân dân
huyện Đô Lương, và bà con du khách gần xa, Đền Quả Sơn đã từng bước được
xây dựng lại ngày chính trên vị trí từ ngàn xưa của đền. Ngày
12/2/1998, Đền Quả Sơn đã được Bộ Văn hoá Thông tin xếp hạng “Di tích
lịch sử văn hoá” cấp quốc gia. Ngày 17 tháng Chạp hàng năm là ngày Lễ
chạp đền. Hay còn gọi là lễ Giỗ Lý Nhật Quang. Lễ hội đền Quả Sơn từ
trước đến nay được tổ chức năm 1 lần 1 năm rước thủy năm sau thi rước cả
thủy cả bộ. Lễ hội Đền Quả Sơn được UNECO công nhận là lễ hội văn hóa
phi vật thể của nhân loại. Thể theo nguyện vọng của nhân dân, từ nay lễ
hội đền Quả Sơn sẽ được tổ chức hàng năm với nhiều hoạt động về phần lễ
và phần hội. Nét đặc sắc nhất của Lễ hội đền Quả Sơn là lễ rước ngài lên
tạ ơn Bà Bụt ở Chùa Bà Bụt (hay còn gọi là Tiên tích tự - là Di tích
lịch sử văn hoá cấp tỉnh), tương truyền bà bụt là người luôn phù giúp Lý
Nhật Quang trong việc kinh bang tế thế. Chắc chắn cùng với sự phát
triển của xã hội, lễ hội Đền Quả Sơn sẽ được nghiên cứu, bổ sung và ngày
càng được tổ chức tốt hơn, phù hợp với quy mô, tầm vóc của đền.
Kính thưa các quý vị đại biểu!
Thưa toàn thể bà con nhân dân, du khách gần xa!
Được
sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, nhà nước, sự gia ân của các bậc tiền
nhân và của Đức thánh Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, huyện Đô Lương không
ngừng đổi mới và ngày càng phát triển toàn diện về mội mặt. Huyện Đô
Lương tự hào là địa phương còn lưu giữ nhiều di tích lịch sử văn hoá.
Trong đó Đền
Quả sơn được UBND tỉnh phê duyệt dự án đầu tư xây dựng theo Quyết định
số 5105 ngày 29/10/2016 với tổng mức đầu tư là 70 tỷ đồng. Kính mong
lãnh đạo các cấp, các ngành, bà con du khách gần xa với tấm lòng thành
kính, góp công, góp sức xây dựng Đền Quả Sơn ngày càng tôn nghiêm và uy
linh như tầm vóc của Đền gốc ngày xưa.
UBND huyện Đô Lương, Ban quản lý di tích đền Quả Sơn xin trân
trọng cảm ơn và kính chúc sức khoẻ tới quý khách gần xa về dự lễ, quý
vị hãy dâng nén hương xin sự giao ân phù hộ của Uy Minh Vương Lý Nhật
Quang, lòng mãi khắc sâu nội dung câu đối hiện đang lưu giữ tại Đền:
“Hiển hách thần linh hương khói miếu đền lưu vạn đại
Lừng danh tông tộc núi sông ghi nhớ mãi ngàn năm”.
Tương
truyền để giúp các triều đình giữ yên bờ cõi và để Quốc thái dân an Uy
Minh Wương Lý Nhật Quang đã đầu thai thành Ông Hoàng Mười để giúp dân
cứu nước túc Đền Hoàng Mười tại huyện Hưng Nguyện ngày nay.
Đền
Quả Sơn là chốn linh thiêng được UBND huyện thành lập Ban quản lý gồm 8
người Trưởng ban là Ông Lê Đình Lĩnh Phó trưởng Phòng VH&TT đảm
nhận. Ban quản lý đã xây dưng quy chế hoạt động được UBND huyện phê
duyệt theo quyết định số 2507 ngày 23/11/2016. Để là tốt công tác quản
lý tại đền Quả Sơn. Ban quản lý di tích ban hành nội quy, quy định để du
khách và nhân dân về dâng cầu lễ chấp hành tốt một số nội dung sau.
1. Thời gian mở cũa buổi sáng từ lúc 7 giờ, buổi chiều 13 giờ 30 phút.
2.
Khi du khách và nhân dân về dâng hương cầu lễ phải ăn mặc kín đáo. Đối
với nam phải không được áo lót quần đùi, nữ không mặc váy và áo hở vai
nách.
3.
Nếu du khách đến dâng hương thì chỉ dâng hương ở 4 bát hương 1 bát giữa
chính điện sau đó đi theo hướng tay phải sang bát thứ 2 bên nhà Hữu vu
tiếp đến đi qua nhà chính điện sang đang hương ở bát thứ 3 bên nhà hữu
vu và cuối cung ta đi vòng ra sau phần mộ của ngài để Dâng hương. Tuyệt
đối không thắp hương lên các gốc cây kẽ đá hay các chậu hoa và các nơi
khác trong di tích vì những nơi đó không có linh thiêng, làm mất mĩ quan
khuông viên của đền.
4.
Nếu quý khách muốn cầu lễ cho mình thì gặp BQL để mua sớ, rửa lễ và đặt
lễ lên bàn thờ của 1 trong nhà thờ mà mình lựa chon. Ra dâng hương ở
bát hương to ở chính giữa. quý khách không dâng hương ở phía trong 3 nhà
điện thờ vì trong đó Ban quản lý chỉ thắp hương vòng cả ngày để đảm bảo
an toàn, chống cháy nổ và môi trường cho du khách.
5.
Quý khách đến dâng hương cầu lễ tại đền Quả Sơn hãy bằng cả tâm niêm
của mình và góp ít tiền công đức cho ban quản lý để góp phần vào công
tác trung tu tôn tạo đền Quả Sơn ngày một khang trang sạch đẹp hơn.
6. Quý khách muốn công đức bằng hiện vật thì gặp ban quản lý để được chấp thuận và hướng dẫn.
7.
Các trường hợp được ưu tiên khi về làm lễ tại Đền đó là; người già;
người tàn tật; người có con nhỏ đi cùng, phụ nữ có thai; Lãnh đạo Đảng,
nhà nước các cấp về dâng lương và du khách ở các tỉnh bạn về dâng hương.
8.
Khi đến với đền quý khách có thể mua đồ lưu niệm và các đặc sản nổi
tiếng của nhân dân huyện Đô Lương như bánh đa, lẹo lạc, cu đơ.... Tuyệt
đối không được hái cây bể cành hoặc lấy bất cứ vật dụng nào về nhà để sử
dụng cá nhân.